PHỎNG VẤN VỚI ĐINH LINH: “NGHỆ THUẬT LUÔN CÓ TÍNH CHÍNH TRỊ”

Cuộc phỏng vấn với Đinh Linh– nhà thơ, nhà văn viết truyện hư cấu, dịch giả, nhiếp ảnh gia người Mỹ gốc Việt, người từng giành được học bổng Pew Fellow – bàn về những thách thức trong việc dịch các tác phẩm từ nhiều ngôn ngữ khác nhau, về những chủ đề trở đi trở lại về sự bẩn thỉu và lố bịch trong tác phẩm của anh, và về việc chính trị được kết hợp chặt chẽ trong nghệ thuật như thế nào.

Bạn đã đăng ký nhn bài ca diaCRITICS chưa? Đăng ký đ trúng thưởng! Đc thêm chi tiết ở đây. 

Đinh Linh là một nghệ sĩ nổi loạn. Lần đầu tôi đọc những truyện ngắn của anh là hồi đại học; tôi học xã hội học nhưng lại tìm đường đến với lớp viết văn sáng tạo, nơi niềm thích thú của tôi với việc viết truyện hư cấu được thổi bùng.

Linh Dinh

Truyện của Đinh Linh rất mắc cười. Chúng không giống bất kỳ thứ gì tôi đọc hồi sinh viên, các tác phẩm của Raymond Carver, Amy Hempel, Ann Beattie. Truyện của Đinh Linh không theo trường phái tối thiểu vốn được giới hàn lâm ca tụng. Trái lại, truyện của anh bùng nổ. Có những gã đàn ông mua cô dâu ngoại quốc, những hoạn quan ngoài ý muốn, những cô gái điếm người Việt có cá tính. Sự lố bịch trong tác phẩm của anh không hiện diện trong những cảnh sinh hoạt gia đình yên ả được viết trong truyện của các nhà văn hư cấu khác.

Những anh chồng tồi tệ, những bà mẹ kế giận dữ, nhà tù, và gái điếm, là đề tài trong tiểu thuyết đầu tay của anh, Love Like Hate (Yêu như ghét) (Seven Stories Press, 2010), trong đó một bà chủ quán café người miền Nam Việt Nam tìm chồng Việt kiều cho con gái mình. Bà không biết rằng, nước Mỹ là một thảm họa ảm đạm giống y như cái tai họa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thời hậu hiện đại, được tạo ra từ những bảng quảng cáo lộn xộn, dân bản xứ ăn đồ ăn ngoại quốc, các hộp đêm chơi nhạc heavy metal. Cuốn tiểu thuyết vừa là bức chân dung gần gũi về Việt Nam vừa là lời bình luận sâu sắc về đất nước này thời hậu chiến, nơi nhiều người có rất ít ký ức về chiến tranh.

Linh đã rất sẵn lòng dành cho chúng tôi buổi phỏng vấn qua email về tiểu thuyết của anh, hàng loạt các tác phẩm nhiều thể loại của anh, và chính trị.

Nghệ thuật của anh được thể hiện qua nhiều hình thức – một dạo anh vẽ tranh, một dạo anh làm thơ, viết truyện hư cấu, chụp hình, chưa tính đến những bài tiểu luận chính trị và dịch phẩm. Anh đã làm thế nào để có thể biểu đạt được qua nhiều hình thức nghệ thuật khác nhau đến thế? Anh thích làm việc với hình thức nghệ thuật nào?

Hồi còn bé cho tới khi tôi 32 tuổi, tôi bị thuyết phục rằng mình là một nghệ sĩ. Việc viết lách bắt đầu sau này, ở trung học, dù tôi không hoàn toàn chắc mình đủ tư cách để viết bằng tiếng Anh. Tôi tới Mỹ năm 11 tuổi, một lứa tuổi khá khó để học ngôn ngữ thứ hai, dù việc này cho phép tôi gắn bó với tiếng Việt. Ở đại học, trong khi theo chuyên ngành hội họa, tôi bắt đầu nghiêm túc nghĩ về bản thân như một nhà thơ. Tôi cũng thử cho ra những bản dịch đầu tiên khi đó. Tôi đọc thơ dân gian Việt Nam, rồi Hồ Xuân Hương, các nhà văn thời kỳ Đổi mới, nhất là Nguyễn Huy Thiệp. Cuốn sách đầu tiên của tôi là một hợp tuyển văn Việt hư cấu mới trong đó tôi dịch phân nửa số truyện. Để có cuốn này, tôi đã phải về Việt Nam, lần đầu vào năm 1995, và tôi có thể thực hiện điều này là nhờ học bổng Pew Fellowship dành cho thơ ca và hội họa mà tôi đã đạt được.

Tôi bỏ vẽ không lâu sau đó vì những lý do kinh tế và chiến lược. Như đã nói đâu đó, tôi không muốn mạo hiểm thất bại ở cả viết lách lẫn vẽ vời vì phân tâm, dù những năm sau này đã chứng tỏ rằng tôi hoàn toàn vui vẻ và hiệu quả khi bị chia làm hai, ba mảnh, hay nhiều hơn thế. Hiện giờ tôi chủ yếu viết các bài tiểu luận chính trị và chụp ảnh, dù thi thoảng tôi vẫn làm thơ, bao gồm một bài thơ bằng tiếng Việt hai tháng trước đây. Nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Bình cứ email và gọi điện cho tôi về một bài thơ và tôi đã thô lỗ lờ chị đi cho tới một hôm tôi trả lời cuộc gọi của chị vì nhẫm lẫn, tưởng đó là cuộc gọi từ Press TV, kênh truyền hình của Iran trên đó tôi xuất hiện nhiều lần. Cuối cùng, bị Bình dồn vào chân tường, tôi đã viết một bài thơ tiếng Việt và cảm thấy hài lòng về nó, một điều tôi đã không làm được trong nhiều năm. Khi sống ở Việt Nam từ năm 1999 tới 2001, tiếng Việt của tôi tự nhiên được cải thiện, nhưng tôi đã không bắt đầu viết bằng tiếng Việt cho tới khi trở lại Mỹ. Dù dịch hay sáng tác, tác phẩm bằng tiếng Việt của tôi rõ ràng ảnh hưởng tới việc viết bằng tiếng Anh, nhưng ảnh hưởng như thế nào và tới mức nào thì lúc này đây tôi chưa sẵn sàng xác định. Tôi cũng đã sống gần ba năm ở Châu Âu, nên tiếng Ý và tiếng Anh của người Anh cũng ảnh hưởng tới tôi. Phân nửa cuốn Blood and Soap (Máu và Xà phòng) của tôi được viết khi tôi ở Ý trong hai năm và gần như không nghe hay nói tiếng Anh. Tôi đã dịch vài bài thơ tiếng Ý sang tiếng Anh và tiếng Việt, và, như thể chưa đủ tự phụ, tôi còn quyết định dịch vài bài thơ bằng tiếng Anh của mình sang tiếng Ý. Tôi tin là những thử thách điên khùng là tốt cho bạn, vì chúng mở mang đầu óc, nhưng cũng tốt khi bạn đứng ngoài một hay nhiều ngôn ngữ, để làm mới, để trêu ghẹo, và để chất vấn nó. Tôi đã dịch bài thơ “The Waste Land” (“Đất hoang”) của Eliot sang tiếng Việt và xuất bản nó. Xin nói thêm là đa phần những hoạt động này không được trả công, dù tôi đã may mắn giành được vài khoản tài trợ khi thực hiện chúng. Song ở tuổi 49, tôi sống rất bấp bênh. Còn về hình thức nghệ thuật mà tôi thích nhất, thì đó là bất cứ thứ gì tôi làm ở hiện tại. Tôi là người không cưỡng lại được các cảm hứng, thôi thúc. Tôi không thể không làm những gì tôi đang làm ở mỗi thời điểm. Giống như hầu hết nghệ sĩ/nhà văn, tôi cũng muốn có nhiều thời gian, tiền bạc hơn, nhưng trong phạm vi khả năng của mình, tôi cố hết sức để vẫn hiệu quả. Tôi xua đi hầu hết những thứ làm mình xao lãng nhất. Nghĩ ngợi những điều tốt đẹp khiến tôi thấy vui.

Là dịch giả, anh đã đối mặt với những thử thách gì? Quá trình dịch với anh là như thế nào – chẳng hạn, anh tự do đến mức nào trong việc truyền đạt văn bản dịch? Anh có cho dịch thuật là hành động sáng tạo của dịch giả hay hành động quay trở lại với ý định của tác giả? Quá trình dịch khác nhau thế nào giữa việc dịch tác phẩm của người khác và dịch tác phẩm của chính mình?

Tôi cố càng trung thành càng tốt với văn bản gốc, và tôi làm việc này tốt hơn nhiều qua năm tháng. Ban đầu, tôi hơi cẩu thả, tôi rất tiếc phải thú nhận thế, nhưng càng thực hành ta càng tiến bộ hơn. Hồi còn thanh niên, tôi gặp nhà thơ Stephen Berg, và ông rất tử tế với tôi suốt nhiều năm, nhưng từ ông, tôi nghiệm ra cách dịch tôi cần tránh. Dịch “các phiên bản” thơ của người khác, Berg rất tự do, nhưng đó chính xác là những gì tôi không muốn làm, trừ phi tôi dịch một trong số những bài thơ của mình, dĩ nhiên rồi, trong trường hợp đó tôi không thực sự dịch mà sáng tác một bài thơ tương đương bằng một ngôn ngữ khác. Nhiệm vụ của người dịch, trong khả năng tốt nhất có thể, là bộc lộ được tác giả chứ không áp đặt bản thân vào tác phẩm để rồi bóp méo nó đi. Là người đã được dịch bởi nhiều dịch giả khác, tôi biết rõ điều đó gây bực dọc đến thế nào. Trước khi tôi viết trực tiếp bằng tiếng Việt, bảy, tám nhà văn Việt Nam đã từng dịch tác phẩm của tôi, và dù họ đều có ý tốt, làm điều họ cho là đúng, thì tôi vẫn không vui. Đọc những bản dịch tác phẩm của mình sang tiếng Ý và tiếng Tây Ban Nha trước khi in, tôi đã chỉnh sửa gần như mọi dòng, mọi câu. Dĩ nhiên, với một ngôn ngữ mà ta không hiểu, thì ta hoàn toàn phụ thuộc vào dịch giả. Cách đây không lâu, tôi nhận được email từ Sussu Laaksonen, “Tôi đọc vài bản dịch tiếng Phần Lan của các tác phẩm của anh trên mạng, và với tư cách là nhà văn, dịch giả, tôi nghĩ trách nhiệm của mình là phải cho anh biết rằng tôi nghĩ những bản dịch này chất lượng rất kém và không truyền đạt các tác phẩm của anh một cách chính xác và công bằng. Chúng đọc lên nghe rất buồn cười. Tôi nghĩ tốt hơn cả thì chúng đừng nên được đăng trên mạng, và hẳn nhiên không nên được in anh có ý định muốn in.”

Có thống kê là chỉ 3% sách ở Mỹ là tác phẩm dịch. Dĩ nhiên, điều này khiến nhiều nhà văn quan trọng không được nhiều độc giả Mỹ biết đến. Tác giả nào viết bằng tiếng Việt chúng ta nên chú ý tới? Ai viết các tác phẩm quan trọng? Anh ngưỡng mộ tác phẩm của ai?

Nhiều nhà văn đang nằm ngoài tầm ngắm, chứ không chỉ nhà văn nước ngoài. Nhiều người bị truyền thông đại chúng xao lãng hơn bao giờ hết và với quá nhiều thứ vớ vẩn trên Internet, mọi người giờ đọc văn chương ít nghiêm túc hơn, và với nền kinh tế đang suy sụp, hầu hết các nhà xuất bản đang gặp nhiều khó khăn. Còn với các nhà văn Việt Nam có tác phẩm nên được dịch sang tiếng Anh, tôi cũng không cập nhật như hồi trước. Song tôi cũng sắp xuất bản một hợp tuyển thơ ca Việt Nam mới. Chỉ một số ít trong số 27 nhà thơ có tác phẩm trong hợp tuyển được độc giả tiếng Anh biết tới, và cũng chỉ là biết sơ sơ mà thôi. Trong số đó, chỉ một người, Phan Nhiên Hạo, có một tuyển tập đầy đủ bằng tiếng Anh, Night, Fish and Charlie Parker (Đêm, cá và Charlie Parker) do tôi dịch. Nguyễn Quốc Chánh cũng được giới thiệu đầy đủ trong hợp tuyển này. Anh ấy chắc hẳn phải được nhiều người biết tới hơn. Vài năm trước, Chánh và tôi được mời tới đọc thơ ở Berlin, và tôi vui vẻ nói rằng người Đức tìm ra Chánh qua dịch phẩm tiếng Anh của tôi. Những gì chúng ta cần là thêm nhiều dịch giả từ tiếng Việt sang tiếng Anh. Phan Hải-Đăng là một dịch giả mới tốt. Nhân thể, anh ấy viết phần giới thiệu cho hợp tuyển của tôi. Còn về văn, Trần Vũ có một tuyển tập bằng tiếng Anh, nhưng hầu hết những truyện hay nhất của anh chưa được dịch. Vì chúng khó dịch hay. Thường những tác phẩm dễ đọc hoặc nhà văn dễ đọc được dịch, trong khi những người gắn với ngôn ngữ, những người giàu chất văn hơn lại bị bỏ qua. Trần Dần, một trong số nhà thơ Việt Nam xuất sắc nhất thế kỷ 20, rơi vào số này. Nhân thể, nhân cách cũng nên được tính đến. Bùi Hoằng Vị là một nhà văn viết truyện hư cấu thú vị, nhưng anh ta rất khó làm việc cùng. Anh ta nói xấu mọi người, quay lưng với tất cả bạn bè, kể cả tôi, nên không ai dịch tác phẩm của anh ta. Tôi nghĩ anh ta thực ra cố dịch một số truyện của mình nhưng kết quả thật khủng khiếp. Khi lần đầu gặp Vị hồi sống ở Saigon, tôi hỏi Nguyễn Quốc Chánh, “Mấy truyện này hay quá! Sao không ai kể cho mình nghe về tay này vậy?” Chánh đáp, “Ồ, tay này không chơi được đâu. Không ai chịu nổi nó. Nó mới nói chuyện với cậu, lát cậu quay lưng đi, nó nói xấu cậu liền.” Dù sao, khi bàn về dịch thuật, thì có rất nhiều khó khăn khả dĩ, và có ít sự khích lệ rõ ràng, song tôi vẫn nghĩ tất cả các nhà văn nên làm công việc dịch thuật. Đó là cách hay để học hỏi, một cách sâu sắc, về ngôn ngữ.

Fake House (Seven Stories Press 2000)

Anh đã đề cập chút ít tới tình trạng của ngành xuất bản và các mối xung đột trong giới cầm bút. Thay đổi chủ đề một chút, anh có gặp khó khăn nào khi xuất bản tác phẩm của mình với tư cách một nhà văn người Mỹ gốc Việt không? Với tư cách là một nhà văn người Mỹ gốc Việt mà tác phẩm không nhất thiết thuộc thể loại tự sự với chủ trương đồng hóa hoặc hòa giải thời hậu chiến? Với tư cách một nhà văn thể nghiệm?

Tôi không cố viết để được xuất bản. Trước khi cuốn sách đầu tiên của tôi được in, tôi gửi thơ, truyện, bản dịch tới các tạp chí văn chương, và được đăng một mớ, dĩ nhiên không phải là ngay lập tức. Giống mọi người, ban đầu tôi cũng thường bị từ chối. Năm 1995, tôi gặp Dan Simon, làm việc cho Nhà xuất bản Seven Stories Press, qua Bùi Phong, một người bạn cũ của tôi ở Philly, sau này làm việc với bên NXB Brooklyn Rail. Chúng tôi gặp nhau ở Brooklyn, thực tế là trong một quán rượu, và tôi bảo Dan rằng mình sắp về Việt Nam lần đầu. Dan khi đó đề nghị tôi làm một hợp tuyển cho anh, và kết quả khoảng một năm sau là cuốn Night, Again. Việc hợp tác với Simon cũng cho ra cuốn Fake House, Blood and Soap  Love Like Hate, ba cuốn truyện hư cấu của tôi. Còn về thơ, tôi tạo dựng danh tiếng của mình ở Philly nhờ các buổi đọc thơ, hầu hết ở quán Bacchanal, một quán rượu, nhưng cũng vì tôi giành được học bổng Pew Fellowship. Từ danh tiếng địa phương này, tôi đã có thể in một cuốn thơ bỏ túi thông qua NXB Singing Horse ở Philly, cuốn thơ nhanh chóng được Ron Silliman, người mới tới Philly, ca ngợi. Sau đó, Silliman giới thiệu tôi với Chax Press, giờ là nhà xuất bản chính cho thơ của tôi. Dù không thụ động, tôi cũng không quá hăng hái trong việc thúc ép bản thân hay tác phẩm của mình. Tiêu điểm chính của tôi, lúc đó lẫn bây giờ, là dùng thời gian để sáng tác. Tôi không tham dự các hội nghị. Thật ra, tôi ít giao du với các nhà văn, cả trên mạng lẫn ngoài đời. Với niềm đam mê mới về viết văn chính trị, tôi đơn thuần gửi các bài viết tới CounterPunch, Dissident Voice và Intrepid Report. Common Dreams thường đều đặn đăng bài của tôi, và tôi được nhiều độc giả biết tới, xét từ các lời bình luận, nhưng tờ báo ngừng đăng bài của tôi, vì rõ ràng, tôi không còn phù hợp với nó nữa. Người ta không nên biến dạng bản thân để phù hợp với nơi nào đó. Dù từng xuất hiện vài lần trên báo Guardian và Thời báo New York, tôi không thực sự thuộc về những nơi đó, không phải vì dở, mà vì những gì tôi nói. Ngay cả khi cố hết sức, đã là rất khó để nói (gần như) tất cả hay (gần như) chính xác những gì bạn muốn nói, những gì bạn phải nói, những gì bạn có nghĩa vụ nói, nhưng nếu bạn không cố làm thế, nếu bạn quá nhiệt tình để thỏa mãn người khác, thì bạn sẽ lạc lối. Bạn lạc lối và chẳng có giá trị gì.

Anh có coi những bài tiểu luận chính trị của mình là thể loại văn hoàn toàn khác, hay anh coi nó như việc mở rộng của các sáng tác thơ văn của mình? Liệu ta có thể tách rời nghệ thuật và chính trị? Liệu chúng có nên được tách rời không?

Đầu tiên, cần phải nói rằng nghệ thuật luôn có tính chính trị. Bước vào bất cứ bảo tàng nghệ thuật hiện đại nào, bạn sẽ ngay lập tức được chào đón bằng những bức tranh sơn dầu theo chủ nghĩa tối thiểu, tương tự như những thứ trang trí sảnh các công ty, và không giống những hình chữ chi làm hài lòng kẻ cục súc, những bệt màu, đường vằn vện được các CEO tài trợ có giá cao khủng khiếp. To lớn nhưng mơ hồ, chúng làm ta kinh hãi, nhưng không làm khách hàng khó chịu. Chủ nghĩa biểu hiện trừu tượng chẳng hạn. Tự do về mặt nội dung, nó gần như phi chính trị, nhưng nó trùng hợp chính xác với kiểu làm dáng quá nam tính của nước Mỹ, hay lấy Thơ Ngôn ngữ làm ví dụ. Với sự uốn khúc liên tục và những thay đổi nhanh chóng, dòng thơ này bắt chước truyền hình, nên cũng có tính chính trị, vì nó củng cố những phương thức truyền thông mang tính trấn an, xoa dịu của các ông chủ của chúng ta. Tôi có thể dẫn ra cả ngàn ví dụ khác, trong đó nghệ thuật hay văn chương phục vụ tầng lớp thống trị, hoặc củng cố tư tưởng của tầng lớp ấy. Mà những chủ đề bạn chọn cũng hé lộ khuynh hướng chính trị của bạn nữa. Cho nên không nên tách rời các bài tiểu luận chính trị khỏi văn thơ của tôi, không chỉ vì tôi cũng có tính chính trị như mọi người khác, mà vì tôi luôn chính trị một cách có ý thức, và luôn nêu bật suy nghĩ về xã hội và chính trị trong mọi thứ mình làm. Hơn nữa, nghệ sĩ hay nhà văn đang ngày càng bị gạt bên lề trong nền văn hóa này, khi mỗi người trong số họ được kỳ vọng là ngoan ngoãn, hiền lành trong căn nhà ổ chuột nhỏ bé của mình, nơi lòng tự trọng của anh ta được chống đỡ bởi một nhóm người giống như anh ta, dù xã hội nói chung chẳng để mắt gì tới anh ta cả. Tôi tin nhà văn và nghệ sĩ nên đấu tranh để trở thành những trí thức quần chúng. Rõ ràng không phải tất cả mọi người đều phải làm vậy, vì tâm tính mỗi người khác nhau, nhưng khi hầu hết trí thức đều lảng tránh việc đối thoại công khai, thì xã hội của bạn đang gặp rắc rối to, mà đây chính xác là tình trạng chúng ta đang mắc phải. Tôi cũng xin nói thêm, tôi tiếp cận việc viết văn chính trị của mình bằng tất cả niềm đam mê và những kỹ năng xứng đáng, và việc viết văn làm thơ rõ ràng đã nhuộm màu, thấm nhuần các bài luận chính trị của tôi.

Các bài tiểu luận chính trị của anh đề cập đến nhiều đề tài khác nhau – truyền thông, bầu cử, kinh tế. Theo anh vấn đề lớn nhất xã hội chúng ta hiện đối mặt là gì? Hay đó là nhiều vấn đề xoắn vào nhau?

Có vài chủ đề chính trong văn chính trị của tôi. Tôi luôn nhấn mạnh rằng chính quyền Mỹ không phải là không có khả năng hay ngu dốt, mà là tội phạm khi nhà cầm quyền của chúng ta cứ tạo điều kiện cho các tội ác chiến tranh ở nước ngoài, và các tội ác tài chính và sự xói mòn tự do ở trong nước. Những tên tội phạm mà chúng ta tiếp tục bầu lên này không phục vụ cũng chẳng quan tâm tới việc phục vụ chúng ta. Tôi trước giờ vẫn nói, từ lâu rồi, rằng nước Mỹ đang trong giai đoạn suy thoái không thể đảo ngược, nhưng điều đó không có nghĩa ta nên thụ động. Từ 2005, tôi đã dạy một khóa học có tên “Tình trạng Liên bang” ở ba trường đại học khác nhau, Naropa, Upenn và ĐH Montana. Trong lớp học về thơ ca đó, tôi yêu cầu sinh viên kết hợp các vấn đề xã hội và chính trị vào sáng tác của họ. Tình trạng Liên bang cũng là tên của blog ảnh và tiểu luận chính trị của tôi. Tôi bắt đầu viết blog này năm 2009, và đã đi qua nhiều bang để quan sát, ghi chép trực tiếp sự rạn vỡ về mặt kinh tế, xã hội của hợp chủng quốc này. Dĩ nhiên, với nguồn tài chính rất hạn hẹp, tôi chỉ có thể làm đến thế. Nếu có nhiều tiền hơn, tôi sẽ lên đường suốt. Mối quan tâm tới sự suy sụp xã hội của tôi cũng hiện diện trong cuốn tiểu thuyết Love Like Hate, nhưng cuốn này cũng nói về sự tái sinh, dù là sự tái sinh đầy khiếm khuyết. Năm 2006, tôi trải qua 9 tháng ở East Anglia, và chuyến đi ấy cho tôi cơ hội suy nghĩ sâu hơn về W. G. Sebald và cuốn The Rings of Saturn (Các vòng đai Thổ tinh) của ông, một suy ngẫm về cái chết không thể tránh được của con người và xã hội. Vậy nên suy tàn là chủ đề chính trong tác phẩm của tôi, nhưng bạo lực, đặc biệt là thứ bạo lực tùy tiện và không đáng có, và sự cách biệt hay hố sâu giữa vẻ bề ngoài và sự thật, cũng hiện diện, vì thế thơ, truyện, hay các bài tiểu luận của tôi tập trung vào ngôn ngữ.

Tôi có thể thấy một chủ đề khác trong tác phẩm của anh là sự bẩn thỉu và lố bịch. Chẳng hạn, tiểu thuyết của anh đầy những gái điếm, chiến tranh, nhà tù, v.v.. Song nó toàn được kể bằng sự hài hước thích thú. Anh đã nói “Tôi kết hợp sự bẩn thỉu hay không sạch sẽ để khiến bức tranh lành mạnh hơn – chứ không làm ô uế thứ gì.” Anh có thể giải thích rõ hơn về sự bẩn thỉu và lành mạnh trong tác phẩm của mình? Tại sao bẩn lại khỏe?

Chúng ta sống trong nền văn hóa tiêu thụ, mà để bán được hàng hóa, nó tán tụng mọi thứ, thậm chí cả sự đau đớn cùng cực hay dơ bẩn. Sự bẩn thỉu được xóa khỏi bức tranh, hoặc được biến đổi, xuyên tạc thành thứ gì đó không thể cưỡng lại, hấp dẫn, và trên hết là đáng để mua. Tuy nhiên, sự suy đồi đó không bị che đậy trong tác phẩm của tôi. Bằng cách kéo sự suy đồi vào bức tranh, tôi khiến nó hoàn chỉnh hơn, vì thế khỏe hơn, hay lành mạnh hơn. Lành mạnh từ chữ “sanus” trong tiếng Latin mà ra, nhân tiện, có nghĩa là khỏe mạnh hay lành mạnh. Trong tiếng Ý đương đại, “sano” đơn giản nghĩa là “khỏe mạnh.” Dù sao đi nữa, khi kéo đất cát, cái chết, sự dơ bẩn từ sau tấm rèm, hay dưới gầm bàn ra, để người ta có thể nhìn thấy, tôi chỉ cho thấy những gì mọi người chúng ta đã ý thức hằng ngày. Thật ra, nhiều lần hằng ngày. Trong bất cứ trường hợp nào, những gì tôi làm hầu như chẳng phải tiểu thuyết, mà là tương đối khái quát khi xét về nghệ thuật hay văn chương nghiêm túc, vì một tác phẩm chỉ nghiêm túc khi nó chỉ ra sự suy tàn. Đó là chủ đề ẩn hay công khai trong mỗi bài thơ hay câu chuyện nghiêm túc. Nếu một tác phẩm liên quan tới thời gian, thì nó đã nhảy múa với sự suy tàn rồi. Còn về nhà tù trong văn của tôi, đó là ẩn dụ cho những khả năng bị ngăn trở, một điều mô tả toàn bộ cuộc sống của chúng ta, không hề có ngoại lệ.

Love Like Hate (Seven Stories Press 2010)

Anh nói Love Like Hate là về sự tái sinh. Và việc nó chủ yếu diễn ra ở Việt Nam – chỉ có vài cảnh ở Mỹ – rất quan trọng. Nếu Mỹ đang trong quá trình suy sụp, thì anh nghĩ gì về xã hội Việt Nam?

Love Like Hate có nói tới Chiến tranh Việt Nam, sự sụp đổ kinh tế thời hậu chiến, rồi sự hồi phục do Đổi Mới đem lại. Suốt cuộc chiến, nhiều tiền của đổ vào miền Nam Việt Nam, nên có sự thịnh vượng ở đây, dù dĩ nhiên, khổ ải mà con người gánh chịu do bạo lực đến từ mọi phía thì không diễn tả nổi. Tuy nhiên, sau khi miền Nam sụp đổ, đất nước bước vào thời kỳ khó khăn mới, mà một trong những hậu quả là làn sóng Thuyền Nhân rời bỏ đất nước. Lòng hận thù, sự tham lam và kém cỏi của chính quyền Cộng sản đóng vai trò then chốt, nhưng còn có việc Việt Nam bị Trung Quốc tấn công nhằm trả đũa việc Việt Nam xâm lược Cam-pu-chia, điều dĩ nhiên khiến Việt Nam tốn nhiều tiền của và nhân lực. Trong khi đó, Mỹ áp đặt lệnh cấm vận thương mại, còn Liên Xô cắt viện trợ vì Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc và cũng vì nền kinh tế Liên Xô đang gặp khó khăn do việc Liên Xô dính líu ở Afghanistan. Trong cơn có thể nói là cùng cực ấy, Việt Nam chỉ có thể tiến lên, và nhờ Đổi mới, Việt Nam đã tiến lên thật, dù nhiều vấn đề vẫn tồn tại. Việt Nam cũng luôn chịu sự cai trị chuyên chế, dù là phong kiến, thuộc địa, chính quyền bù nhìn có sự trợ giúp của nước ngoài, hay, giờ đây là Đảng Cộng sản. Dù nhiều nhà bình luận thường khuôn các vấn đề nghiêm trọng nhất của Việt Nam là thuần túy về mặt chính trị, nhiều vấn đề trong số đó, tỉ như tham nhũng, chế độ gia đình trị, và bạo lực với kẻ yếu, rõ ràng có tính xã hội, và về bản chất thuộc về văn hóa. Một nhà văn lớn như Hồ Biểu Chánh hiểu điều này rất rõ, vậy nên mục tiêu chính của 64 cuốn tiểu thuyết của ông là cải tạo nhân cách người Việt. Ông muốn chỉ ra những thói hư tật xấu, dĩ nhiên, cả những điều hay, của người Việt, và thường làm họ xấu hổ để họ hành xử tốt hơn. Nhìn về phía trước, Việt Nam dĩ nhiên có thể cải thiện, không chỉ về mặt chính trị, mà còn về mặt văn hóa và xã hội. Ta có thể nói rằng trừ phi có những thay đổi về mặt văn hóa, xã hội, thì đảng, hay các đảng, nào cầm quyền cũng không quan trọng. Thách thức mà Việt Nam, một nước nhỏ sống dưới bóng gã khổng lồ Trung Quốc, đối mặt rất khác với những gì đe dọa Mỹ, một nước siêu cường, nhưng những gì sắp tổn thương hai nước, và cả thế giới, là cái kết của sự tăng trưởng mà ta đã trở nên quen thuộc và kỳ vọng. Tăng trưởng kinh tế đã được xác định dựa vào sự sẵn có của năng lượng giá rẻ, tức dầu mỏ, và khi cực điểm dầu hỏa đã đạt, thì ta đang chứng kiến sự sụp đổ tài chính và chính trị nhanh chóng ở nhiều nước. Tất cả chúng ta sẽ nghèo hơn, chắc chắn là thế, nhưng mối đe dọa thực sự là cuộc hỗn chiến sắp tới để tranh giành nguồn dầu hỏa, khí tự nhiên và các nguồn năng lượng khác còn lại. Nhờ dầu lửa, thế kỷ 20 là thế kỷ của sự tăng trưởng chưa từng có, nhưng cũng là nỗi kinh hoàng không tưởng tượng nổi từ xưa đến giờ. Trong đại tiệc hỗn loạn này, Việt Nam nhận được nhiều máu hơn thức ăn, và giờ khi nó tham gia một phần vào bàn tiệc đó, thì bữa tiệc đã gần tàn.

Khi xã hội đi xuống, thì nhà văn – hay bất cứ nghệ sĩ nào – nên làm gì? Anh có lời khuyên nào cho các nhà văn hiện cầm bút hay không?

Một nhà văn có bức tranh to lớn trong tâm trí mình. Anh ta phải nhận ra những cuộc khủng hoảng ảnh hưởng tới cộng đồng của mình, tới đất nước, và cả thế giới. Anh ta sẽ hiểu sai các chi tiết nếu không hiểu những động lực lớn hơn đằng sau chúng. Nếu thực tế là anh ta không tìm được việc đúng khả năng của mình, chuẩn bị li dị, gần như không có nhà ở, nghiện sách báo khiêu dâm chẳng hạn, thì chuyện đó chẳng phải những sự kiện riêng tư, đơn lẻ mà là các phần của bức tranh to lớn hơn. Sức ảnh hưởng và tiếng vang của tác phẩm phụ thuộc vào tầm nhìn của anh ta, vậy nên nếu anh ta hẹp hòi, tự mãn, thiếu hiểu biết, thì tác phẩm cho thấy hết. Đơn giản mà nói, nhà văn phải hiểu những gì đang diễn ra. (Không đùa đâu!) Dù phải có cái nhìn toàn diện về những gì đang xảy ra, dĩ nhiên nhà văn cũng phải chú ý tới những điều cụ thể, khi chúng hiển hiện trong môi trường tức thời của mình. Anh ta phải ở gần mặt đất, và khi nói thế, ý tôi là anh ta phải điều tra, theo nghĩa đen, nơi mình đang ở, và những người xung quanh. Anh ta phải liên tục quan sát mọi người, trực tiếp, và nghe những gì họ muốn nói, và anh ta phải trải nghiệm thế giới của mình về mặt vật chất, bằng cách di chuyển trong đó với chính cơ thể mình, chứ không chịu hài lòng với những phiên bản đã bị lọc, bị phai màu khi chiếu qua màn hình. Đây cũng là lúc tái sinh chủ nghĩa địa phương, chủ nghĩa đã mang hàm ý tiêu cực quá lâu. Hãy chào đón những nhà văn đậm chất San Mateo, Allentown hay Lake Charles, như cách mà Hồ Biểu Chánh đậm chất Gò Công.

Người dịch: Nguyễn Vân Hà, M.A., Giảng viên Khoa Ngữ văn Anh, ĐH KHXH&NV, Tp.HCM. Đã dịch các tác phẩm Việt-Anh, Anh-Việt như truyện ngắn “Gấu vượt núi” và “Đầm đỏ” của Alice Munro đăng trên Tiền vệ và báo Hội Nhà văn, truyện “Của thừa kế” của Virginia Woolf đăng trên Phụ nữ Chủ nhật số 35/2002, Hồi ký Điện Biên Phủ của họa sĩ Phạm Thanh Tâm “Drawing under fire” (Sherry Buchanan biên tập, Asia Ink, London, 2005) và nhiều sách, truyện khác.

Hiệu đính: Nguyễn Thị Hường

   

Đinh Linh sinh ra ở Sài Gòn, Việt Nam, năm 1963, đến Mỹ năm 1975, và đã sống ở Ý và Anh. Anh là tác giả hai tuyển tập truyện, Fake House (Nhà giả) (Seven Stories Press 2000) và Blood and Soap (Máu và Xà phòng) (Seven Stories Press 2004), bốn tập thơ, (All Around What Empties OutXung quanh trống rỗng cả (Tinfish 2003), American Tatts (Chax 2005), Borderless Bodies (Cơ thể không biên giới) (Factory School 2006) và Jam Alerts (Chax 2007), và tiểu thuyết, Love Like Hate (Yêu như ghét) (Seven Stories Press 2010). Tác phẩm của anh lọt vào vài ấn bản hợp tuyển Best American Poetry (Thơ Mỹ hay nhất) và Great American Prose Poems from Poe to the Present (Những bài thơ Mỹ vĩ đại từ Poe cho tới hiện tại), và xuất hiện trong nhiều cuốn khác. Đinh Linh cũng làm công tác biên tập cuốn Night, Again: Contemporary Fiction from Vietnam (Lại đêm: Văn hư cấu đương đại từ Việt Nam) (Seven Stories Press 1996) và Three Vietnamese Poets (Ba thi sĩ Việt Nam) (Tinfish 2001), và dịch cuốn Night, Fish and Charlie Parker (Đêm, cá, và Charlie Parker), thơ của Phan Nhiên Hạo (Tupelo 2006). Anh cũng có nhiều tác phẩm tiếng Việt được xuất bản rộng rãi.

Eric Nguyen có bằng về xã hội học của ĐH Maryland và chứng chỉ về Nghiên cứu người đồng tính, song tính, chuyển giới LGBT. Anh hiện là ứng viên Thạc sĩ Chương trình Nghệ thuật của ĐH McNeese State và sống ở Louisiana.

                                                                                                                                                                  

Bn có thích đc diaCRITICS không? Nếu có thì xin mờđăng ký nhn bài đây.

Vui lòng bỏ chút thời gian chia sẻ bài này. Chia sẻ (qua email, Facebook, v.v.) giúp quảng bá diaCRITICS. Mời bạn tham gia vào câu chuyện và để lại lời bàn. 

______________________________________________________________________

3 COMMENTS

  1. Dịch giả phạm nhiều lỗi dịch quá, do không có một nền tảng kiến thức xã hội và văn hóa vững chắc.
    1. minimalist: một trường phái sáng tác trong hội họa, kiến trúc và âm nhạc được dịch thành “mô hình thu nhỏ” ????
    2. accidental eunuchs: những gã đàn ông đực rựa (bị thiến) giả gái, hiện tượng xảy ra ở Thái Lan, được dịch là các cô bồ tình cờ????
    3. touted: nghĩa ở đây không phải là “chào hàng”???, mà là tán tụng, tán dương.
    4. the quiet domestic epiphanies: vì không hiểu nghĩa bóng sâu xa đằng sau câu chữ nên dịch giả phang cho nó một nghĩa đen thùi lùi mà chẳng ai hiểu nỗi “các câu chuyện hiển linh trong nhà yên ả”?????
    5. (Your art) encompasses many different mediums: chứa đựng ???? nhiều phương tiện truyền đạt). Ở đây nên dịch là “được thể hiện qua nhiều loại hình sáng tác/nghệ thuật”
    6. I also attempted my first translations: Tôi cũng cố????? Không phải là “cố” trong “cố gắng” mà là “thử” trong “thử nghiệm”
    7. I picked up my cell by mistake: tôi mở điện thoại cầm tay xem. Không phải mở ra xem kênh TV của Iran, mà là trả lời điện thoại.
    8. tôi đã viết bài thơ tiếng Việt mà mình cảm thấy hay, thứ gì đó???? mình đã không làm trong nhiều năm = tôi đã viết bài thơ tiếng Việt mà mình có cảm xúc về nó, một điều mà tôi….
    9. chúng kéo giãn tâm trí bạn ra (they stretch your mind): dịch giả bám nghĩa đen quá nhiều, dịch thoát ra là “mở rộng khả năng trí óc” thì rõ nghĩa hơn
    10. khi bạn đứng ngoài một hay nhiều ngôn ngữ, để tươi mới, cười cợt, và đặt câu hỏi về nó?????: holy sh*****t, người dịch hay google translate dịch đây trời??? Câu tiếng Anh gốc là: to step outside of one’s language or languages, to refresh, tease, and question it. Tôi không nghĩ ra được cách dịch hay, nhưng dịch theo kiểu dịch như trên thì coi như giết chết ý câu văn gốc rồi.
    11. Tôi là người khá tùy hứng: compulsive ở đây không phải là tùy hứng, câu tiếp theo Linh Dinh đã giải thích ý của anh ta muốn nói gì rồi. Khi làm chuyện gì thì bị chuyện đó lôi cuốn, khong thoát ra làm chuyện khác được.
    12. tôi có thể dùng nhiều thời gian, tiền bạc hơn, nhưng trong phạm vi sinh kế của mình: chữ “use” ở đây đâu phải là “dùng”. “Tôi cũng muốn có nhiều thời gian và tiền bạc hơn, nhưng trong phạm vi khả năng của mình”….

    Chưa đến 1/2 bài mà đã hơn 10 lỗi rồi.
    I rest my case. I understand diacritics wants to reach Vietnamese readers who can’t read English, but you should try to ensure the quality of the translations.

  2. Những lý luận trong phản hồi của ông Bùi Hoằng Vị tỏ ra đúng đắn và thuyết phục, ngoại trừ cách xưng hô ‘chú’, ‘bẩm’. Đáng tiếc đến nay vẫn chưa thấy ý kiến trở lại của ông Linh Dinh ở đây.

  3. Kính chú Linh, tui xin phép vài lời về mấy điểm mà chú đã có nhã ý nhắm vô cá nhân tui (BHV) trong bài phỏng vấn trên:
    Thứ nhất, chú dạy rằng tui “cố dịch một số truyện của mình nhưng kết quả thật khủng khiếp”? Bẩm chú, trước khi nói “kết quả”, cho phép tui đề cập tới cái “nguyên nhân” tại sao tui “dịch một số truyện của mình” trước đã nha: Thực tế là, đầu những năm 2000, hai ông Nguyễn Hưng Quốc và Hoàng Ngọc Tuấn (ở Úc) nhận lời phụ trách mảng Văn Thơ VN đương đại trong Tuyển Tập Văn Học Đông Nam Á (do T.S. Dennis Haskell, Westren Australia University, chủ biên & dự kiến xuất bản vào thời điểm đó), và hai ông đó đã muốn lấy truyện của tui (cùng với của cô Hoài và ông Thiệp) đặng đưa vào Tuyển Tập; họ đã i-meo hối thúc tui tự dịch một, hai truyện ngắn vừa ý nhất của mình, đặng gởi gấp cho Dennis Haskell duyệt. Cũng xin bẩm với chú, cái “kết quả khủng khiếp” thứ nhất – bản dịch đó đã được cả 3 người (Quốc, Tuấn, và Dennis) hài lòng đón nhận, không sửa chữa một chữ nào (theo lời ông Quốc). Còn cái “kết quả khủng khiếp” thứ nhì – nhà văn Đinh Từ Bích Thúy đã tử tế giới thiệu trên Tạp Chí Da Màu (damau.org/archives/14900 và damau.org/archives/15575)! Biết nói sao giờ; lỗi ở bọn họ, chớ ở chi tui mà chú trách?
    Thứ nhì, chú mách rằng tui “nói xấu mọi người, quay lưng với tất cả bạn bè, nên không ai dịch tác phẩm của” tui? Xin mách lại với chú, cóc cần đợi chú bày: Sau cái trò chơi “Au Rez-de-Chaussée du Paradis” của Đoàn Cầm Thi, tui cũng sớm chán rồi (vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=21294), nên sau đó đã từ chối tham gia cái “Anthology of Vietnamese Contemporary Short Fictions” (do nhà văn Ngô Tự Lập cộng tác với Dalkey Archive Press, Illinois State University, để thực hiện 2005), cũng như rút khỏi danh sách các tác giả mà nhà văn Nguyễn Hồng Nhung chọn dịch cho dự án giới thiệu văn học VN đương đại (do Falusi Márton – Hungary – chủ biên 2010), nha chú?!
    Thứ ba, chú nghe thiên hạ răn rằng “tui mới nói chuyện với ai, họ quay lưng đi, tui nói xấu liền”, bèn tin ngay hả? Rày tui hỏi chú, thằng Đinh Linh “quay lưng đi”, tui “liền nói xấu” nó những gì? (Và nếu có, sao chú không hỏi thẳng coi tui có nói xấu nó như vậy hay không?) Tui thừa nhận hay “chê” thiên hạ “vọc chữ”, nên cố nhiên họ phải để bụng (“Ai cho mày chê con tao xấu?”) thôi! Tui cũng chẳng ngại “quay lưng” với những ai tui hết ưa, chẳng hạn 2011 – gút-bai Tiền Vệ (vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham&action=detail&id=16350), hay 2007 – i-meo kêu cái Wikivietlit của chú là WC đó?! Còn những người khác? Đọc “Phỏng Vấn về Nguyễn Viện (vandoanviet.blogspot.com/2015/05/phong-van-ve-nguyen-vien.html), thiên hạ lại tiếp tục cho là tui “nói xấu” người này người nọ, chớ gì? Nhưng mà, “chê” cóc phải là “nói xấu”! (Chẳng hạn những nhà dận chủ, họ “chê” nhà nước nọ / đảng cai trị kia, chứ chả phải “nói xấu” gì nó cả nha chú?!) Bởi vậy tui mới biểu chú nên học thêm tiếng Việt đi là vậy. Và nhất là đừng có ham cái trò “bỏ bóng, đá người” như rứa – cóc ăn nhậu chi tới cái chủ đề in-tờ-viu đó trọi trơn – cái thói đó còn tệ hơn “nói xấu” nữa đa. Chả lẽ người Mỹ cũng cóc văn minh hơn bọn “+” tụi tui là mấy ha chú? Đáng tiếc dữ hôn?!

LEAVE A REPLY

Please enter your comment!
Please enter your name here